Lịch sử phân loại Bách_Nootka

Lần đầu tiên nó được đặt vào chi Cupressus với tên gọi Cupressus nootkatensis vào năm 1824, sau đó bị chuyển sang chi Chamaecyparis vào năm 1841 trên cơ sở hình thái học của bộ lá có dạng cành phẳng, giống như các loài khác trong chi Chamaecyparis, chứ không giống với phần lớn (mặc dù không phải là tất cả) các loài Cupressus khác.

Tuy nhiên, việc sắp đặt này không phù hợp với hình thái học và vật hậu học của quả nón của nó, do nó lại giống với Cupressus hơn, chẳng hạn các quả nón này chín vào năm thứ hai, chứ không phải một năm như ở Chamaecyparis. Các chứng cứ di truyền học, do Gadek và những người khác công bố năm 2000, ủng hộ mạnh mẽ việc đưa nó trở lại chi Cupressus và loại khỏi chi Chamaecyparis.

Gần đây hơn nữa, Farjon và những người khác (năm 2002) chuyển nó sang chi mới là Xanthocyparis, cùng với loài bách vàng Việt Nam mới được phát hiện (Callitropsis vietnamensis); loài này là tương tự như bách Nootka và việc sắp đặt này có nhiều luận cứ ủng hộ, do chúng không có quan hệ với Chamaecyparis mà cũng chẳng phù hợp hoàn toàn với Cupressus mặc dù có nhiều điểm tương đồng.

Little và những người khác (năm 2004), trong khi vẫn xác nhận mối quan hệ trên đây với các chứng cứ mới, đã chỉ ra rằng tổ hợp danh pháp có sớm hơn trong chi Callitropsis đã tồn tại, là Callitropsis nootkatensis (D.Don) Oerst., công bố vào năm 1864 nhưng đã bị các tác giả khác hoặc là bỏ qua hoặc là không nhận ra. Little và những người khác vì thế đã coi Xanthocyparis là đồng nghĩa của Callitropsis, tên gọi chính xác cho các loài này theo quy tắc của ICBN khi xử lý một chi khác biệt. Tên gọi Xanthocyparis hiện nay đã được đề xuất để bảo lưu, nhưng điều này chỉ được quyết định tại Đại hội Thực vật học quốc tế năm 2011, cho đến thời gian này thì tên gọi chính xác cần phải là Callitropsis theo nguyên tắc đặt trước.

Quả nón của bách Nootka.
Các hạt

Mặc dù việc chấp nhận sự phân loại sửa đổi này đã được chấp nhận rộng rãi trong giới các nhà thực vật học, nhưng quán tính trong các ngành làm vườnlâm nghiệp (cả hai nói chung rất chậm chạp trong việc chấp nhận các kết quả nghiên cứu thực vật học) đã giúp cho tên gọi Chamaecyparis nootkatensis còn được tiếp tục liệt kê trong nhiều tình huống.

Loài này có nhiều tên gọi trong tiếng Anh, như Nootka cypress (bách Nootka), Yellow cypress (bách vàng), hay Alaska cypress (bách Alaska). Mặc dù nó không phải là tuyết tùng, nhưng nó cũng hay bị gọi một cách nhầm lẫn là Nootka cedar (tuyết tùng Nootka), Yellow cedar (tuyết tùng vàng), Alaska cedar (tuyết tùng Alaska) hay Alaska yellow cedar (tuyết tùng vàng Alaska). Tên gọi Nootka có nguồn gốc từ việc phát hiện ra nó trên các vùng đất của Dân tộc đầu tiên của Canada, người Nuu-chah-nulth trên đảo Vancouver, British Columbia, trước đây được gọi là người Nootka.

Bách Nootka có nguồn gốc ở bờ biển phía tây Bắc Mỹ, từ bán đảo KenaiAlaska, kéo dài về phía nam tới phần phía bắc của California, thường có mặt trong các khu vực miền núi ẩm ướt, nhưng đôi khi cũng xuất hiện ở các cao độ thấp.